Bước tới nội dung

Dahomey

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Vương quốc Dahomey
1600–1904
Quốc kỳ Dahomey
Quốc kỳ
Tổng quan
Vị thếVương quốc, quốc gia chư hầu của Đế chế Oyo (1740–1823), Pháp bảo hộ (1894– 1904)
Thủ đôAbomey
Ngôn ngữ thông dụngTiếng Fon
Tôn giáo chính
Vodun
Chính trị
Chính phủQuân chủ
Ahosu (Vua) 
• 1600 – 1625
Do-Aklin
• 1894–1900
Agoli-agbo
Lịch sử
Lịch sử 
• Aja Những người định cư từ Allada định cư trên cao nguyên Abomey
1600
• Dakodonu bắt đầu chinh phục trên cao nguyên Abomey
1620
• Vua Agaja chinh phục AlladaWhydah
1724–1727
• Vua Ghezo đánh bại Đế quốc Oyo và chấm dứt tình trạng phụ lưu
1823
• Giải thể
1904
Địa lý
Diện tích 
• 1700[1]
10.000 km2
(3.861 mi2)
Dân số 
• 1700[1]
350000
Kế tục
[[Dahomey thuộc Pháp]]

Vương quốc Dahomey (/dəˈhoʊmi/) là một vương quốc Tây Phi nằm trong lãnh thổ của nước Bénin ngày nay, tồn tại từ khoảng năm 1600 đến 1904. Vương quốc này phát triển trên cao nguyên Abomey, nơi sinh sống của người Fon vào đầu thế kỷ 17, và trở thành một thế lực khu vực vào thế kỷ 18 khi mở rộng về phía nam để chinh phục các thành phố quan trọng như Whydah, thuộc Vương quốc Whydah ven bờ Đại Tây Dương. Sự chiếm đóng này mang lại cho Dahomey quyền tiếp cận không bị cản trở với thị trường buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương.

Trong phần lớn thế kỷ 19, Vương quốc Dahomey trở thành một cường quốc khu vực sau khi chấm dứt tình trạng phụ thuộc đối với Đế chế Oyo.[1] Các du khách châu Âu đã ghi chép rộng rãi về vương quốc này, biến Dahomey thành một trong những quốc gia châu Phi quen thuộc nhất đối với người châu Âu.[2] Dahomey là một cường quốc có tầm quan trọng khu vực, với nền kinh tế nội địa được xây dựng trên cơ sở chinh phục và lao động nô lệ,[3] thương mại quốc tế mạnh mẽ và quan hệ ngoại giao với người châu Âu, hệ thống hành chính trung ương và thuế khóa được tổ chức tốt, cũng như lực lượng quân đội mạnh mẽ. Vương quốc này cũng nổi bật với các tác phẩm nghệ thuật đặc sắc, một đơn vị quân đội toàn nữ được người châu Âu gọi là Dahomey Amazons, và các nghi lễ tôn giáo Vodun phức tạp.[4]

Sự phát triển của Dahomey trùng hợp với sự bùng nổ của buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương, và nó được người châu Âu biết đến như là một trong những nguồn cung cấp nô lệ chính.[2] Xã hội Dahomey mang tính quân sự hóa cao, luôn trong tình trạng chuẩn bị chiến tranh; họ thường xuyên tiến hành các cuộc chiến và đột kích các quốc gia lân cận để bắt tù nhân bán vào thị trường nô lệ, đổi lấy các hàng hóa của châu Âu như súng, thuốc súng, vải, vỏ sò cowrie, thuốc lá, ống điếu và rượu.[5][6] Một số tù nhân khác bị biến thành nô lệ trong Dahomey, làm việc trên các đồn điền hoàng gia[7] hoặc bị hiến tế trong các nghi lễ tôn giáo hàng năm được gọi là "Lễ hội thường niên của Dahomey" (Annual Customs of Dahomey).[8] Lễ hội này bao gồm việc thu thập và phân phát quà tặng và cống phẩm, các nghi lễ Vodun, diễu hành quân sự và thảo luận giữa các chức sắc về tương lai của vương quốc.

Vào những năm 1840, Dahomey bắt đầu suy yếu do áp lực từ Anh Quốc yêu cầu chấm dứt buôn bán nô lệ. Hải quân Hoàng gia Anh đã thiết lập một cuộc phong tỏa trên biển và tuần tra chống buôn bán nô lệ gần bờ biển Dahomey.[9] Vương quốc này cũng chịu thất bại khi không thể xâm chiếm và bắt nô lệ tại Abeokuta, một thành bang Yoruba được thành lập bởi các cư dân của Đế chế Oyo di cư xuống phía nam.[10] Sau đó, Dahomey bắt đầu gặp các tranh chấp lãnh thổ với Pháp, dẫn đến cuộc chiến vào năm 1890, và một phần vương quốc trở thành vùng bảo hộ của Pháp. Vương quốc chính thức sụp đổ bốn năm sau, khi vua cuối cùng, Béhanzin, bị lật đổ và đất nước bị sáp nhập vào Tây Phi thuộc Pháp.

Dahomey thuộc Pháp giành độc lập vào năm 1960 với tên gọi Cộng hòa Dahomey, sau đó đổi tên thành Bénin vào năm 1975.

Các quốc vương Dahomey

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc vương Bắt đầu trị vì Kết thúc trị vì
Do-Aklin (Ganyihessou) ≈1600 1620
Dakodonou 1620 1645
Houégbadja 1645 1680
Akaba 1680 1708
Agaja 1708 1740
Tegbessou (Tegbesu) 1740 1774
Kpengla 1774 1789
Agonglo 1790 1797
Adandozan 1797 1818
Guézo (Ghézo/Gezo) 1818 1858
Glèlè 1858 1889
Gbehanzin 1889 1894
Agoli-agbo 1894 1900

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Heywood, Linda M.; John K. Thornton (2009). “Kongo and Dahomey, 1660-1815”. Trong Bailyn, Bernard & Patricia L. Denault (biên tập). Soundings in Atlantic history: latent structures and intellectual currents, 1500–1830. Cambridge, MA: Harvard University Press. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “Heywood” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  2. ^ a b Law, Robin (tháng 7 năm 1986). “Dahomey and the Slave Trade: Reflections on the Historiography of the Rise of Dahomey”. The Journal of African History (bằng tiếng Anh). 27 (2): 237–267. doi:10.1017/S0021853700036665. ISSN 1469-5138. S2CID 165754199.
  3. ^ Polanyi, Karl (1966). Dahomey and the Slave Trade: An Analysis of an Archaic Economy. Seattle: University of Washington Press.
  4. ^ R. Rummel (1997)"Death by government". Transaction Publishers. p. 63. ISBN 1-56000-927-6
  5. ^ “The women soldiers of Dahomey pedagogical unit 1 | Women”.
  6. ^ “Dahomey | historical kingdom, Africa | Britannica”. www.britannica.com (bằng tiếng Anh). 30 tháng 5 năm 2023.
  7. ^ “Dahomey | historical kingdom, Africa | Britannica”. www.britannica.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2022.
  8. ^ Law, Robin (tháng 7 năm 1986). “Dahomey and the Slave Trade: Reflections on the Historiography of the Rise of Dahomey”. The Journal of African History (bằng tiếng Anh). 27 (2): 237–267. doi:10.1017/S0021853700036665. ISSN 1469-5138. S2CID 165754199.
  9. ^ Law, Robin (1997). “The Politics of Commercial Transition: Factional Conflict in Dahomey in the Context of the Ending of the Atlantic Slave Trade” (PDF). The Journal of African History. 38 (2): 213–233. doi:10.1017/s0021853796006846. hdl:1893/280. S2CID 15681629. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2018.
  10. ^ Akintoye, Stephen (2010). A history of the Yoruba people. Amalion Publishing. tr. 300–303. ISBN 9782359260069.