Natalie Jane Imbruglia (/ɪmˈbrliə/; sinh ngày 4 tháng 2 năm 1975)[1] là nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc, người mẫu và diễn viên người Anh gốc Úc.[2] Sau nhiều lần xuất hiện trong các chương trình quảng cáo truyền hình, cô vào vai Beth Brennan trong loạt chương trình truyền hình dài tập Úc Neighbours vào đầu thập niên 1990.[3] 3 năm sau khi rời chương trình, cô ký hợp đồng thu âm cùng hãng RCA Records và khởi nghiệp ca hát bằng album đầu tay Left of the Middle (1997).[4] Album chạm mốc 7 triệu bản trên toàn cầu vào năm 2002 và trở thành một trong những album đầu tay bán chạy nhất mọi thời đại bởi một nữ nghệ sĩ người Úc;[5][6][7] đĩa đơn quốc tế đầu tay trích từ album, "Torn" đạt thành công lớn về mặt thương mại[8][9][10][11][12][13] và đem về cho Imbruglia đề cử giải Grammy cho "Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất".[14]

Natalie Imbruglia
Imbruglia tại Liên hoan phim Cannes 2008
SinhNatalie Jane Imbruglia
4 tháng 2, 1975 (49 tuổi)
Sydney, Úc
Phối ngẫuDaniel Johns (k.hôn
2003-2008)
Sự nghiệp âm nhạc
Thể loạiPop rock
Nghề nghiệpCa sĩ, người viết bài hát, người mẫu, diễn viên
Năm hoạt động1989–nay
Hãng đĩaRCA, Brightside, Island & Sony Masterworks
Websitewww.natalieimbruglia.com

Hai album phòng thu kế tiếp, White Lilies Island (2001) và Counting Down the Days (2005) đều được chứng nhận đĩa Vàng tại Anh Quốc[15] và đạt thành công vừa phải tại khu vực châu Âu,[16][17] với Counting trở thành nhà quán quân đầu tiên của cô tại UK Albums Chart.[18] Các đĩa đơn "Wrong Impression" và "Shiver" trích từ hai album trên đều vươn lên các thứ hạng cao thị trường châu Âu.[19][20] Sau khi phát hành album tổng hợp Glorious: The Singles 97–07 (2007),[21] cô tiếp tục cho ra mắt album Come To Life (2009)[22]Male (2015).[23][24]

Cho đến nay, Imbruglia đã được ghi nhận bán ra 10 triệu đĩa nhạc trên toàn cầu và tổng cộng hơn 3 năm xuất hiện trên các bảng xếp hạng thu âm Anh Quốc.[25] Cô là chủ nhân của 1 giải Video âm nhạc của MTV,[26] 1 giải Âm nhạc châu Âu của MTV, 7 giải ARIA,[27][28] 2 giải Brit[29] và 3 đề cử giải Grammy.[30] Cô lần đầu xuất hiện trên màn ảnh rộng trong bộ phim hài Johnny English (2003)[31] và tiếp tục tham gia trong bộ phim được khen ngợi tại Úc Closed for Winter (2009).[32][33][34][35] Vào tháng 4 năm 2014, cô góp mặt trong vở kịch đầu tiên được chuyển thể từ "Things We Do For Love" của Alan Ayckbourn tại Theatre Royal, Bath.[36] Vào năm 2010, Imbruglia thay thế Dannii Minogue làm giám khảo cho chương trình The X Factor Úc mùa thứ hai.[37] Sau khi kết hôn cùng trưởng nhóm Silverchair Daniel Johns tại Port Douglas, Queensland, Úc trong đêm Giao thừa năm 2003, cả hai thông báo ly hôn vào tháng 1 năm 2008 sau 5 năm chung sống.[38]

Danh sách đĩa nhạc

sửa

Tham khảo

sửa
  1. ^ “Biography for Natalie Imbruglia”. IMDB. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2015. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  2. ^ “Emotional ties with actress and singer Natalie Imbruglia”. Mail Online. Truy cập 16 tháng 9 năm 2015.
  3. ^ McNair, James (ngày 1 tháng 4 năm 2005). “Natalie Imbruglia: Torn no longer”. The Independent. UK: Independent Print Limited. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2012.
  4. ^ Prato, Greg. "Natalie Imbruglia > Biography". Allmusic. Macrovision. Lưu trữ 14 tháng 1 năm 2009.
  5. ^ Sun, Rebecca (ngày 29 tháng 7 năm 2014). “Natalie Imbruglia Signs with ICM Partners for Concerts, New Album Coming”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2014.
  6. ^ Minogue wins battle of Aussie divas. Billboard. ngày 19 tháng 1 năm 2002. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2014.
  7. ^ “Back home and beating the melancholy”. smh.com.au. ngày 9 tháng 12 năm 2002. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2010.
  8. ^ “Best Selling Singles Of All Time”. everyHit.com. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2012.
  9. ^ Ami Sedghi (ngày 4 tháng 11 năm 2012). “UK's million-selling singles: the full list”. Guardian. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2012.
  10. ^ “Airwaves torn up by Imbruglia”. The Sunday Telegraph. AU. ngày 3 tháng 5 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2015.
  11. ^ Q Magazine (ngày 11 tháng 6 năm 2013). “Torn No. 1 Best Pop Song”. Q Magazine The Rock List. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2013.
  12. ^ Billboard Pop 100 (ngày 11 tháng 6 năm 2013). “Torn No. 26 Billboard Pop Chart”. Billboard. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2013.
  13. ^ Billboard Pop 100 (ngày 11 tháng 6 năm 2013). “Torn No. 19 in the UK 2000s”. Billboard. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2013.
  14. ^ “Grammy Awards: Best Pop Vocal Performance – Female”. Rock on the Net. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2011.
  15. ^ "Certified Awards Search" Lưu trữ 2011-05-11 tại Wayback Machine (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Lưu trữ 11 tháng 10 năm 2009. Enter Natalie Imbruglia trong khung Search.
  16. ^ “Natalie Imbruglia - White Lilies Island (album)”. Australian Charts. Hung Medien. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2015. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  17. ^ “Natalie Imbruglia - Counting Down the Days (album)”. Australian Charts. Hung Medien. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2015. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  18. ^ "Chart Stats: Natalie Imbruglia". ChartStats.com. Lưu trữ 11 tháng 11 năm 2008.
  19. ^ “Natalie Imbruglia - Shiver (Single)”. Australian Charts. Hung Medien. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2015. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  20. ^ “Natalie Imbruglia - Wrong Impression (Single)”. Australian Charts. Hung Medien. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2015. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  21. ^ “Glorious: The Singles 97–07 - Natalie Imbruglia”. Allmusic. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2015. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  22. ^ Erlewine, Stephen Thomas. “Come to Life - Natalie Imbruglia”. Allmusic. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.
  23. ^ “Natalie Imbruglia Unveils The Dark And Dreamy Cover Of Comeback LP 'Male'. Mike Wass. www.idolator.com. ngày 20 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2015.[liên kết hỏng]
  24. ^ “Natalie Imbruglia covers Daft Punk and Julian Casablancas collaboration 'Instant Crush' - listen”. Luke Morgan Britton. NME.com. ngày 12 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2015.
  25. ^ “Natalie Imbruglia on Sony”. Sony Music. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 10 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archivedate= (trợ giúp)
  26. ^ “1998 Video Music Awards”. MTV. ngày 12 tháng 3 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2015. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  27. ^ “1998 ARIA Music Awards”. ARIA. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2015. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  28. ^ “1999 ARIA Music Awards”. ARIA. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2015. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  29. ^ “1999 BRIT Awards”. Giải Brit. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2015. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  30. ^ “41st annual Grammy nominees”. CNN. 5 tháng 1 năm 1999. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2015. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  31. ^ “Johnny English (2003) on IMDb. IMDb. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2015. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  32. ^ Darkness in broad sunshine Lưu trữ 2009-04-29 tại Wayback Machine The Australian. 25 tháng 4 năm 2009
  33. ^ At the Movies ABC Australia. 22 tháng 4 năm 2009
  34. ^ Review - Closed For Winter The Sydney Morning Herald. 17 tháng 4 năm 2009
  35. ^ Closed for Winter Variety. 25 tháng 4 năm 2009
  36. ^ Charles Spencer (24 tháng 4 năm 2014). “Things We Do For Love, Theatre Royal Bath, review: laughter and pain”. Telegraph. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2015. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  37. ^ “The X Factor to try on a new Natalie”. News.com.au. ngày 31 tháng 3 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2015. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  38. ^ “Natalie Imbruglia love split”. Sunday Mirror. ngày 4 tháng 1 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2015. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)

Liên kết ngoài

sửa